Chính phủ Trung_Hoa_Dân_Quốc_(1912–1949)

Chính phủ trung ương

Thiết Huyết Thập Bát Tinh kỳ
Ngũ Sắc kỳ
Thanh Thiên Bạch Nhật Mãn Địa Hồng kỳ

Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc là cơ cấu cai trị quốc gia, lịch sử sớm nhất có thể truy đến Chính phủ Quốc dân Trung Hoa Dân Quốc được triệu tập tại Vũ Xương vào năm 1911, về sau trải qua nhiều lần thay đổi chính quyền như Chính phủ Lâm thời Nam Kinh, Chính phủ Lâm thời Bắc Kinh, Chính phủ Bắc Dương, Chính phủ Quốc dân[96]. Ngay sau Khởi nghĩa Vũ Xương, Phủ đô đốc Quân đội Hồ Bắc Chính phủ quân sự Trung Hoa Dân Quốc được thành lập[97], Lê Nguyên Hồng nhậm chức đô đốc[98], đồng thời căn cứ theo "Cách mạng phương lược" của Tôn Trung Sơn, tuyên bố phế trừ niên hiệu Tuyên Thống của triều đình Thanh, đổi quốc hiệu thành Trung Hoa Dân Quốc[99]. Đây là chính phủ quân sự cấp tỉnh đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc[100].

Ngày 1 tháng 1 năm 1912, Chính phủ Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc chính thức thành lập tại Nam Kinh, đây là cơ cấu chính phủ trung ương đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa Dân Quốc. Sau khi Ước pháp Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc được công bố thi hành, Chính phủ Lâm thời Bắc Kinh kế thừa Chính phủ Lâm thời Nam Kinh, đến ngày 10 tháng 10 năm 1913 Chính phủ Bắc Kinh Trung Hoa Dân Quốc chính thức thành lập. Chính phủ Bắc Dương là chính phủ hợp pháp duy nhất đại diện cho Trung Quốc từ năm 1912 đến năm 1928, nhìn chung có thể phân thành bốn giai đoạn là thời kỳ Viên Thế Khải thống trị từ 1912-1916, thời kỳ Hoàn hệ quân phiệt thống trị từ 1916-1920, thời kỳ Trực hệ quân phiệt thống trị từ 1920-1924, và thời kỳ Phụng hệ quân phiệt thống trị từ 1924-1928[101]. Từ sau Bắc phạt năm 1928, Chính phủ Quốc dân Nam Kinh thay thế Chính phủ Bắc Dương.[102]

Ngày 2 tháng 4 năm 1921, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc (Quảng Châu) được thành lập, Tôn Trung Sơn nhậm chức "đại tổng thống phi thường", lần đầu tiên sử dụng "Thanh Thiên Bạch Nhật Mãn Địa Hồng kỳ" làm quốc kỳ, nhằm phản đối tính hợp pháp của Chính phủ Bắc Dương[103], đến năm sau do Vận động Hộ pháp lần thứ hai thất bại nên giải thể. Ngày 2 tháng 3 năm 1923, Tôn Trung Sơn về Quảng Châu lập Đại bản doanh Đại nguyên soái Lục-Hải quân, tái lập chính phủ quân sự; đến ngày 1 tháng 7 năm 1925, cải tổ thành Chính phủ Quốc dân Trung Hoa Dân Quốc, sau khi Bắc phạt thành công thay thế Chính phủ Bắc Dương làm chính phủ trung ương và cơ quan hành chính tối cao của Trung Hoa Dân Quốc. Ngày 20 tháng 5 năm 1948, Chính phủ Quốc dân cải tổ thành Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, chức vụ Chủ tịch Chính phủ Quốc dân đổi thành "Tổng thống", duy trì đến nay[104].

Thời kỳ đầu, nguyên thủ quốc gia của Trung Hoa Dân Quốc gọi là "đại tổng thống Trung Hoa Dân Quốc", sau Bắc phạt thì đổi thành "Chủ tịch Chính phủ Quốc dân"; đến sau khi thi hành hiến pháp năm 1947 thì gọi là "tổng thống Trung Hoa Dân Quốc"[105]. Tôn Trung Sơn là đại tổng thống lâm thời đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc, Viên Thế Khải là đại tổng thống chính thức đầu tiên, chủ tịch Chính phủ Quốc dân đầu tiên là Uông Tinh Vệ, tổng thống Trung Hoa Dân Quốc đầu tiên là Tưởng Giới Thạch[106][107].

Cát cứ địa phương

Ngoài khu vực chịu sự khống chế của chính phủ trung ương, trong lãnh thổ Trung Hoa Dân Quốc còn tồn tại rất nhiều chính quyền cát cứ địa phương hoặc thế lực cát cứ, trong đó chính quyền Ngoại Mông Cổ, Tây Tạng, chính quyền Đảng Cộng sản và chính quyền bù nhìn của Nhật Bản từng tuyên bố độc lập.

  • Chính quyền Ngoại Mông Cổ
Ngày 29 tháng 12 năm 1911, Jebtsundamba Khutuktu đời thứ tám thành lập Hãn quốc Bác Khắc Đa, tuyên bố thoát ly Trung Quốc để độc lập. Ngày 9 tháng 6 năm 1915, do ký kết "Hiệp ước Trung-Nga-Mông" nên thủ tiêu độc lập, tuyên bố quy thuận Trung Hoa Dân Quốc đồng thời thi hành "tự trị". Năm 1921, Bạch vệ Nga xua đuổi thế lực của Trung Quốc, chính quyền Mông Cổ chính thức khôi phục. Sau khi Jebtsundamba Khutuktu đời thứ tám từ trần vào năm 1924, Mông Cổ vào ngày 26 tháng 11 cùng năm sửa đổi hiến pháp, chính thức chuyển từ chế độ quân chủ lập hiến sang nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ xã hội chủ nghĩa. Ngày 5 tháng 1 năm 1946, Trung Hoa Dân Quốc chính thức thừa nhận Ngoại Mông Cổ độc lập.Năm 1911, Ngoại Mông Cổ tuyên bố độc lập, Tannu Uriankhai vẫn do Ngoại Mông Cổ thống trị. Sau đó, Nga thừa cơ chiếm lĩnh Tannu Uriankhai, khuyến khích khu vực thoát ly Ngoại Mông Cổ để độc lập. Năm 1914, Tannu Uriankhai tuyên bố độc lập, đổi tên thành Tuva. Sau Cách mạng Nga năm 1917, đến năm 1919 Chính phủ Bắc Dương khôi phục thống trị đối với Ngoại Mông Cổ, bao gồm Tuva. Tháng 1 năm 1920, nước Nga Xô viết tái chiếm Tuva; đến ngày 14 tháng 8 năm 1921, những người Bolshevik Tuva thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Tannu-Tuva. Năm 1926, Liên Xô và Mông Cổ ký kết điều ước, đổi tên nước này thành Cộng hòa Nhân dân Tuva, khẳng định tính độc lập của Tuva. Ngày 11 tháng 10 năm 1944, Tuva gia nhập Liên Xô.
  • Chính quyền Tây Tạng
Năm 1911, Khởi nghĩa Vũ Xương bùng phát, các tỉnh tại Trung Quốc bản thổ lần lượt tuyên bố thoát ly triều Thanh thống trị để độc lập. Tin tức được truyền đến Tây Tạng, dẫn tới náo loạn tại Lhasa. Tháng 12 năm 1912, Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 trở về Lhasa từ nơi lưu vong tại Ấn Độ, chính phủ Tây Tạng xua đuổi đại thần và quân đồn trú của triều Thanh, tuyên bố độc lập. Ngày 11 tháng 1 năm 1913, Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 phái người ký kết Hiệp ước Mông-Tạng tại Khố Luân, Mông Cổ, thừa nhận độc lập lẫn nhau. Tháng 10 năm 1913, các đại biểu của Tây Tạng, Anh Quốc và Chính phủ Bắc Dương cử hành hội đàm ba bên tại Shimla[108], đến tháng 3 năm 1914, đại biểu của phía Anh là Henry McMahon dùng ủng hộ Tây Tạng độc lập làm điều kiện nhằm đổi lấy việc phía Tây Tạng chấp thuận biên giới theo đường McMahon[109]. Ngày 3 tháng 7 cùng năm, Chính phủ Bắc Dương nhận thấy âm mưu bên trong nên rút khỏi đàm phán, cùng ngày Anh Quốc và Chính phủ Tây Tạng ký kết "Điều ước Shimla"[110]
  • Căn cứ địa Đảng Cộng sản (1927-1949)
Sau khi Quốc-Cộng hợp tác lần thứ nhất tan vỡ năm 1927, Đảng Cộng sản Trung Quốc trước sau lập Căn cứ địa Cách mạng Tỉnh Cương Sơn, nước Cộng hòa Xô viết Trung Hoa, Liên bang Tây Bắc nước Cộng hòa Xô viết Trung Hoa, nước Cộng hòa Nhân dân Xô viết Trung Hoa, nước Cộng hòa Dân chủ Xô viết Trung Hoa... Thời kỳ kháng Nhật từ năm 1937 đến năm 1945, lập nhiều căn cứ địa kháng Nhật tại khu vực bị Nhật Bản chiếm cứ, đến thời kỳ nội chiến lần thứ hai Đảng Cộng sản Trung Quốc gọi khu vực do mình khống chế là khu giải phóng.
  • Chính quyền bù nhìn của Nhật Bản
Sau khi Nhật Bản xâm chiếm Trung Quốc, họ sử dụng chính sách chia để trị đối với Trung Quốc, bảo trợ thành lập các chính quyền bù nhìn trung thành với Nhật Bản. Năm 1932, Nhật Bản kết hợp một bộ phận tông thất triều Thanh cùng các tướng lĩnh và quyền quý người Hán tại khu vực Đông Bắc thành lập Mãn Châu Quốc[111], thủ đô đặt tại Tân Kinh. Lãnh thổ bao gồm toàn bộ ba tỉnh Liêu Ninh, Cát Lâm và Hắc Long Giang và miền đông Nội Mông và thành phố Thừa Đức của tỉnh Hà Bắc hiện nay. Tháng 8 năm 1945, sau khi Nhật Bản chiến bại, Phổ Nghi cử hành nghi thức thoái vị[112], Mãn Châu Quốc chính thức diệt vong[113]. Năm 1937, Nhật Bản xâm chiếm toàn diện Trung Quốc, sau đó tại lãnh thổ Trung Quốc còn lập các chính quyền bù nhìn như Chính phủ Tự trị phòng Cộng Ký Đông, Chính phủ Lâm thời Hoa Bắc, Chính phủ Tự trị Liên minh Mông Cổ, Chính phủ Tự trị Tấn Bắc, Chính phủ Tự trị Sát Nam, Chính phủ Duy Tân Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1940, các đảng viên Quốc dân đảng quay về phía người Nhật Bản như Uông Tinh Vệ lập ra "Chính phủ Quốc dân Trung Hoa Dân Quốc" tại Nam Kinh[114]:532, Uông Tinh Vệ đảm nhiệm chức vụ quyền chủ tịch của Chính phủ Quốc dân và Viện trưởng Hành chính viện, Chu Phật Hải và Lý Sĩ Quần là các thành viên chủ yếu[115], sử dụng "Thanh Thiên Bạch Nhật Mãn Địa Hồng kỳ" làm quốc kỳ. Ngày 9 tháng 1 năm 1943, Chính phủ Quốc dân Uông Tinh Vệ tuyên chiến với liên quân Anh-Mỹ[116], sau khi Nhật Bản đầu hàng năm 1945 thì giải thể[6].
  • Đông Turkestan
Ngày 12 tháng 11 năm 1933, Đệ Nhất Cộng hòa Đông Turkestan thành lập tại khu vực Kashgar, tỉnh Tân Cương, là một nước cộng hòa Hồi giáo; đến ngày 6 tháng 2 năm 1934, bị quân phiệt người HồiMã Bộ Oanh phá hủy. Tháng 8 năm 1944, các khu vực Y Lê, Tháp Thành, A Sơn ở miền bắc Tân Cương bùng phát cách mạng. Elihan Tore thành lập Đệ Nhị Cộng hòa Turkestan với ủng hộ của Liên Xô, thủ đô đặt tại Y Ninh, đến tháng 6 năm 1946 thì kết thúc.[117]
Danh sách thế lực địa phương (quân phiệt) thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc tại Đại lục
Danh xưngThế lựcThời gian hoạt độngCăn cứ địaNhân vật đại biểuCường quốc trợ giúpBản đồ tình thế
Hoàn hệBắc Dương phái1916-1925An HuyĐoàn Kỳ Thụy, Nghê Tự Xung, Từ Thụ Tranh, Đoàn Chi Quý, Lô Vĩnh TườngNhật BảnBản đồ phạm vi thế lực năm 1930Năm 1934, Đảng Cộng sản Trung Quốc buộc phải Trường chinh
Trực hệBắc Dương phái1917-1926Trực Lệ[118]Phùng Quốc Chương, Tào Côn, Ngô Bội Phu, Tề Tiếp Nguyên, Tôn Truyền PhươngHoa Kỳ, Anh Quốc
Phụng hệBắc Dương phái1916-1928Phụng ThiênTrương Tác Lâm, Trương Học Lương, Trương Tông XươngNhật Bản
Tây Bắc quânBắc Dương phái1921-1930Thiểm TâyPhùng Ngọc Tường, Hàn Phúc Củ, Tống Triết Nguyên, Dương Hổ ThànhLiên Xô
Tấn hệBắc Dương phái1911-1949Sơn TâyDiêm Tích SơnNhật Bản
Xuyên quânBắc Dương phái1919-1938Tứ XuyênLưu Tương, Lưu Văn Huy, Đặng Tích Hầu, Dương Sâm
Kiềm quânBắc Dương phái1920-1926Quý ChâuViên Tổ Minh, Vương Gia Liệt, Chu Tây Thành, Lưu Hiển Thế, Bành Hán Chương
Cựu Quế hệkhông1916-1925Quảng TâyLục Vinh Đình, Thẩm Hùng Anh
Tân Quế hệQuốc dân đảng1922-1953Quảng TâyLý Tông Nhân, Bạch Sùng Hy, Hoàng Thiệu Hoành
Điền hệQuốc dân đảng1916-1927Vân NamĐường Kế Nghiêu, Long Vân, Lô HánPháp
Tương hệQuốc dân đảng1916-1937Hồ NamTriệu Hằng Dịch, Đường Sinh Trí, Hà Kiện
Việt hệQuốc dân đảng1920-1925Quảng ĐôngTrần Quýnh Minh, Long Tế Quang, Trần Minh Xu, Tương Phát Khuê, Trần Tế Đường, Dư Hãn Mưu
Mã gia quân[119]Hồi giáo1872-1949Cam TúcMã An Lương, Mã Đình Hiền[120]
Ninh HạMã Hồng Quỳ, Mã Hồng Tân
Thanh HảiMã Bộ Thanh, Mã Bộ Phương
Tỉnh Tự trị Tân Cươngkhông1933-1944Tân Cương[121]Thịnh Thế Tài[122]Liên Xô

Chế độ pháp luật

"Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc" là bộ luật căn bản của quốc gia, dựa trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Tam Dân và Ngũ quyền phân lập của Tôn Trung Sơn. Chủ nghĩa Tam Dân chủ trương chủ nghĩa dân tộc bình đẳng cùng tồn tại giữa các dân tộc và quốc gia, chủ nghĩa dân quyền mà theo đó công dân được thi hành quyền lợi chính trị quản lý chính phủ, và chủ nghĩa dân sinh mà theo đó chính phủ vì nhân dân phục vụ và xây dựng kinh tế-xã hội phồn vinh[123], do đó "Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc chỉ rõ chế độ là "nước cộng hòa dân chủ của dân, do dân, vì dân"[123]. Ngũ quyền hiến pháp xác lập chế độ tư pháp độc lập với các quyền hành chính, quyền lập pháp, quyền khảo thí và quyền giám sát. Ngoài quy định ngũ quyền hiến pháp của thể chế chính phủ trung ương và chế độ chính phủ tự trị địa phương, hiến pháp còn làm rõ quyền hạn giữa chính phủ trung ương và chính phủ địa phương, chọn chế độ bình quyền, các quốc sách cơ bản khác.[124]

Ngày 11 tháng 3 năm 1912, Tôn Trung Sơn công bố "Ước pháp lâm thời Trung Hoa Dân Quốc" để làm pháp luật cơ bản lâm thời của quốc gia, đây là lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc tư tưởng "chủ quyền tại dân" được đưa vào pháp quy.[125]Năm 1913, Quốc hội khóa I của Trung Hoa Dân Quốc đề xuất dự thảo hiến pháp (còn gọi là Dự thảo hiến pháp Thiên Đàn)[126]. Năm 1914, Viên Thế Khải giải tán quốc hội, đến ngày 1 tháng 5 cùng năm ông công bố "Ước pháp Trung Hoa Dân Quốc" (còn gọi là Ước pháp Viên ký")[127]. Năm 1919, trong thời kỳ Đoàn Kỳ Thụy chấp chính, có đề xuất dự thảo hiến (Dự thảo hiến pháp năm thứ 8)[128]. Năm 1923, trong thời kỳ Tào Côn nhậm chức đại tổng thống đã công bố "Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc (Hiến pháp Tào Côn)[129]. Năm 1925, Đoàn Kỳ Thụy trong thời gian tại nhiệm lần thứ hai lại đề xuất dự thảo hiến pháp (Dự thảo hiến pháp năm thứ 14)[128] Năm 1928, sau khi Quốc dân đảng thống nhất Trung Quốc, vào ngày 3 tháng 10 cùng năm Ủy ban Thường vụ Trung ương của đảng này thông qua "Cương lĩnh huấn chính", vào ngày 5 tháng 5 năm 1931 trong Đại hội đảng thông qua "Ước pháp thời kỳ huấn chính Trung Hoa Dân Quốc".[130] Ngày 5 tháng 5 năm 1936, Chính phủ Quốc dân công bố dự thảo hiến pháp, là tiền thân của Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc hiện nay.[131] Ngày 25 tháng 12 năm 1946, Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc được thông qua[132], được công bố vào đầu năm 1947 và thi hành từ ngày 25 tháng 12 cùng năm[123]. Từ đó, Trung Hoa Dân Quốc kết thúc thời kỳ huấn chính, chính thức bước vào thời kỳ hiến chính. Tuy nhiên, Quốc-Cộng nội chiến khiến rất nhiều điều khoản mất hiệu lực[133].

Sau khi Trung Hoa Dân Quốc được thành lập vào năm 1912, Chính phủ Bắc Dương lấy phương thức "trên nguyên tắc kế thừa pháp chế triều Thanh" trong thời kỳ quá độ. Ngày 21 tháng 2 năm 1913, Bộ Tư pháp lệnh cho các tỉnh cải tổ tòa án: tại các tỉnh thành lập tòa án cao đẳng, tại khu hành chính cấp địa khu và thương cảng lập tòa án cấp địa phương, địa phương cấp huyện tòa án sơ cấp".[134] Tháng 10 năm 1927, Chính phủ Quốc dân Nam Kinh công bố "Điều lệ tạm thời tổ chức Tòa án tối cao", thực hiện chế độ bốn cấp và ba lần xét xử[135]. Bốn cấp tức là tại trung ương lập tòa án tối cao, tại địa phương lập tòa án cấp cao, tòa án địa phương, các huyện không lập tòa án địa phương thì lập cơ quan tư pháp[136]. Tháng 10 năm 1932, ban bố quy định tổ chức tòa án, theo đó cơ quan thẩm phán phổ thông trung ương và địa phương, từ bốn cấp giảm còn ba cấp: trung ương lập tòa án tối cao, cấp tỉnh có tòa cAo đẳng, cấp huyện có tòa án địa phương[124].

Đảng phái chính trị

Thanh Thiên Bạch Nhật kỳ của Trung Quốc Quốc dân Đảng.Đảng kỳ Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Tháng 3 năm 1912, Chính phủ Lâm thời Bắc Kinh ban bố "Ước pháp Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc", trong đó quy định: "nhân dân có tự do ngôn luận, sáng tác, lưu hành và tụ họp, lập hội", lần đầu tiên quy định dưới hình thức pháp luật về tự do và quyền lợi lập hội lập đảng, tham gia chính trị của mọi người, tạo hoàn cảnh xã hội thuận lợi để các chính đảng nổi lên. Sau đó, nhóm Chương Bỉnh Lân lập Thống Nhất đảng, Đồng Minh hội cải tổ thành Thể chế Nội chính đảng, các chính đảng đầu thời kỳ Dân quốc xuất hiện như nấm mọc sau mưa[137]. Trong đó, các chính đảng có sức ảnh hưởng khá lớn là: Trung Quốc Tiến bộ Đảng, Trung Quốc Quốc dân Đảng, Trung Quốc Thanh niên Đảng và Trung Quốc Trí công Đảng[137].

Tháng 8 năm 1912, Tống Giáo Nhân liên hiệp thống nhất Cộng hòa đảng, Quốc dân Cộng tiến đảng, Quốc dân công đảng và Cộng hòa Thực tiến hội thành Quốc dân đảng, mục tiêu là lập nội các theo ước pháp lâm thời, quản lý thực quyền chính trị. Cuối năm 1912, trong tuyển cử Tham nghị viện và Chúng nghị viện của Quốc hội, Quốc dân đảng giành được 45% số ghế của lưỡng viện[138]:112. Tháng 3 năm 1913, Tống Giáo Nhân ám sát thiệt mạng trước khi nhậm chức thủ tướng nội các[96]:86. Tháng 11 cùng năm, Viên Thế Khải xác định Quốc dân đảng là tổ chức phi pháp, hạ lệnh giải tán. Ngày 10 tháng 10 năm 1919, Tôn Trung Sơn cải tổ Trung Hoa Cách mạng đảng thành Trung Quốc Quốc dân Đảng. Năm 1925, Trung Quốc Quốc dân Đảng lập Chính phủ Quốc dân bắt đầu Bắc phạt, đến năm 1928 thì thay thế Chính phủ Bắc Dương, chính thức thống nhất Trung Quốc[104]. Năm 1949, Trung Quốc Quốc dân Đảng thất bại trong Quốc-Cộng nội chiến, phải rút sang Đài Loan.

Đảng Cộng sản Trung Quốc được thành lập vào ngày 23 tháng 7 năm 1921 tại Nam Hồ, Gia Hưng, Chiết Giang[139], thời kỳ đầu lập đảng họ hợp tác với Quốc dân đảng "phản đế phản phong kiến"[140]. Sau khi Tôn Trung Sơn từ trần vào năm 1925, Quốc-Cộng hợp tác dần bất ổn định[141]. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch thực thi "thanh đảng"[142], phái hữu trong Quốc dân đảng chính thức đoạn tuyệt với Đảng Cộng sản Trung Quốc[143]. Ngày 1 tháng 8 năm 1927, Đảng Cộng sản Trung Quốc phát động Khởi nghĩa Nam Xương, ngày 28 tháng 4 năm 1928 Hồng quân của Mao Trạch ĐôngChu Đức hội quân tại Tỉnh Cương Sơn, dần lập khu xô viết tại tại các khu vực giáp giới như miền nam Giang Tây, miền tây Phúc Kiến[144], trải qua năm lần Quốc dân đảng vây diệt trong giai đoạn 1930-1933, và Trường chinh trong giai đoạn 1934-1936[145], cuối cùng giành được thắng lợi trong Quốc-Cộng nội chiến[146], kết thúc thời kỳ thống trị của Trung Quốc Quốc dân Đảng tại Đại lục, lập ra nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa[147].

Trung Quốc Thanh niên Đảng được sáng lập tại Paris, Pháp vào năm 1923[148], từng là chính đảng lớn thứ ba trong lịch sử hiện đại Trung Quốc[149], vào năm 1949 theo Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc dời sang Đài Loan[150]. Trung Quốc Trí Công đảng được thành lập tại San Francisco, Hoa Kỳ vào ngày 10 tháng 10 năm 1925[151], Trần Quýnh Minh làm chủ tịch, Đường Kế Nghiêu làm phó chủ tịch, hiện là một trong tám đảng phái dân chủ tại Trung Quốc[152].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trung_Hoa_Dân_Quốc_(1912–1949) http://202.55.1.83/history/history_news_year.asp?d... http://221.195.59.51:8005/reslib/400/110/030/L0000... http://60.250.180.26/acadmy/na001.html http://www.btzx.cn/Article/zjss/lszg/201012/25454.... http://myy.cass.cn/news/379429.htm http://kejiao.cntv.cn/bjjt/classpage/video/2010113... http://news.china.com.cn/rollnews/2011-06/13/conte... http://www.chinamil.com.cn/big5/wy/2011-12/21/cont... http://cpc.people.com.cn/GB/64162/64172/85037/8503... http://cpc.people.com.cn/GB/69112/75843/75874/7599...